CUỘC Đời CHÚA CỨU THẺ - QUYỂN 2

14/31

Chương 43—HÀNG RÀO NGĂN CẢN BỊ PHÁ ĐỔ

Dựa theo Ma-thi-ơ 15:21-28; Mác 7:24-36

Sau cuộc chạm trán với người Pha-ri-si, Đức Chúa Giê-su rời khỏi thành Ca-bê-na-um, ngang qua xứ Ga-li-lê, tiến thẳng về vùng đồi thuộc biên giới xứ Phê-ni-xi. Nhìn sang phía tây, Ngài có thể thấy các thành cổ Ty-rơ và Siđôn trải rộng trên cánh đồng bên dưới, với những đền thờ của dân ngoại, những lâu đài nguy nga và trung tâm thương mại, các hải cảng tàu bè đậu san sát. Xa hơn nữa là Địa Trung Hải bao la xanh biếc, tại đây, các sứ giả sẽ đem Tin Lành đời đời đến cho các trung tâm thuộc đế chế vĩ đại của thế giới. Nhưng giờ vẫn chưa đến. Lúc này, công việc trước mắt Ngài là huấn luyện các môn đồ cho sứ mạng họ sẽ gánh vác. Tới vùng này, Ngài hi vọng có thể tìm được sự thanh vắng mà Ngài không có khi ở Bết-sai-đa. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu duy nhất của cuộc hành trình này. CCC2 107.1

“Xảy có một người đàn bà xứ Ca-na-an, từ xứ ấy đến, mà kêu lên rằng: Lạy Chúa, là con cháu vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng! Con gái tôi mắc quỷ ám”. (Ma-thi-ơ 15:22) .Dân thị trấn này thuộc dòng dõi người Ca-naan xưa. Họ là những kẻ thờ thần tượng, bị người Giu-đa khinh miệt và thù ghét. Người đàn bà đến với Đức Chúa Giê-su cũng thuộc tầng lớp đó. Bà là một người ngoại đạo, do đó, bà không được hưởng những quyền lợi mà người Giu-đa vẫn hưởng hằng ngày. Có nhiều người Giu-đa sống trà trộn với người Phê-ni-xi, và tin tức về chức vụ của Đấng Cứu Thế đã lan tới tận vùng này. Một số người đã được nghe Lời Ngài và chứng kiến những việc lạ lùng Ngài làm. Theo người ta kể, người đàn bà biết rằng vị tiên tri này đã chữa lành đủ mọi thứ tật bệnh. Khi được nghe nói về quyền năng của Ngài, niềm hi vọng chợt lóe lên trong lòng bà. Bị thôi thúc bởi tình mẫu tử, bà quyết định tới trình bày với Ngài về tình trạng của con gái mình. Chính sự cương quyết đã khiến bà đem nỗi đau của mình tới với Đức Chúa Giê-su. Nhất định Ngài phải chữa lành con bà. Bà đã tìm cầu sự giúp đỡ của các thần ngoại bang nhưng chẳng có ích chi. Và có những lúc tâm thần của bà bị cám dỗ với nỗi hoàn nghi trong lòng rằng: Vị giáo sư người Giu-đa này có thể làm được gì cho tôi? Nhưng người ta đồn rằng Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật, bất kể người tới cầu xin sự giúp đỡ của Ngài giàu hay nghèo, Ngài đều chữa lành cho họ hết. Bà nhất quyết không để tuột mất niềm hi vọng mong manh duy nhất của mình. CCC2 107.2

Đấng Cứu Thế biết tình cảnh của người đàn bà này. Ngài biết bà đang ao ước được thấy Ngài, vì Ngài đặt mình vào hoàn cảnh của bà. Bằng cách giúp đỡ bà trong cơn đau khổ, Ngài có thể trình bày một cách sinh động bài học Ngài muốn dạy. Bởi vậy, Ngài đã mang các môn đồ theo Ngài tới vùng này. Ngài muốn họ thấy những hạn chế trong sự hiểu biết của dân chúng tại các thành và các làng mạc giáp ranh với Y-sơ-ra-ên. Dân tộc đã được ban cho mọi cơ hội để hiểu biết Lẽ Thật vẫn không biết gì về những Ị08 thiếu thốn của những người xung quanh. Không ai thèm cố gắng giúp đỡ những linh hồn đang ở trong tối tăm. Bức tường ngăn cách mà lòng kiêu ngạo của người Giu-đa đã xây nên, khiến cả các môn đồ của Ngài cũng chẳng có chút cảm tình gì với giới ngoại đạo. Bằng mọi giá, những bức tường ngăn cách này phải bị phá đổ. CCC2 108.1

Đấng Cứu Thế đã không đáp ứng ngay lời cầu xin của người đàn bà. Ban đầu, Ngài đón tiếp người đại diện cho dòng dõi bị khinh miệt này theo cách xử sự của người Giu-đa. Qua đó, Ngài muốn các môn đồ sẽ bị đánh động bởi cách xử sự lạnh nhạt và vô tâm của người Giu-đa trong một tình huống tương tự; Ngài còn một dụng ý nữa, rằng: Qua cách Ngài tiếp người đàn bà, và qua cách xử sự đầy cảm thông đó, Ngài muốn họ tiếp xúc với những nỗi đau như thế, và xử sự giống như Ngài khi chấp nhận điều người đàn bà cầu xin. CCC2 108.2

Nhưng dù Đức Chúa Giê-su không đáp một lời, người đàn bà vẫn không mất lòng tin. Khi Ngài đi qua như thể không nghe thấy tiếng bà cầu xin, bà đã đi theo Ngài, tiếp tục van xin. Cảm thấy khó chịu vì bị quây rầy, các môn đồ đề nghị Đức Chúa Giê-su đuổi bà đi. Họ thấy rằng Thầy mình đã đối xử lạnh nhạt với bà, do đó, họ tưởng rằng Ngài hài lòng về thành kiến của người Giu-đa với người Ca-na-an. Nhưng Đấng người đàn bà cầu xin lại là một Cứu Chúa nhân từ, và để trả lời đề nghị của các môn đồ, Đức Chúa Giê-su phán: “Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của nhà Y-sơra-ên đó thôi”. Mặc dù câu trả lời xem ra phù hợp với thành kiến của người Giu-đa, nó cũng hàm ý một lời khiển trách các môn đồ, mà sau này họ mới hiểu như một lời nhắc nhở về điều Ngài vẫn thường nói với họ - Chúa đến thế gian để cứu rỗi tất cả những ai tiếp nhận Ngài. CCC2 108.3

Người đàn bà càng khẩn thiết van xin. Bà sấp mình xuống chân Ngài mà kêu cầu: “Lạy Chúa, xin Chúa giúp tôi cùng!” Có vẻ như Đức Chúa Giê-su vẫn khước từ lời van xin của bà, theo đúng thành kiến vô tình của người Giu-đa, Ngài trả lời rằng: “Không nên lấy bánh của con cái mà quăng cho chó con ăn”. Điều này có thể là một khẳng định rằng: Quả là không công bằng khi rộng tay ban phát ơn phước dành riêng cho dân được Đức Chúa Trời yêu quý cho người ngoài và người xa lạ đối với dân Y-sơ-ra-ên. Câu trả lời này chắc lẽ làm nhụt chí một người ít kiên trì hơn. Nhưng người đàn bà lại thấy cơ hội của mình đã đến. Dù thái độ bề ngoài của Đức Chúa Giê-su có vẻ như muốn từ chối, bà vẫn cảm biết sự cảm thông không giấu nổi từ Ngài. “Lạy Chúa, thật như vậy, song mấy con chó con ăn những miếng bánh vụn trên bàn chủ nó rớt xuống”. Trong khi con cái trong gia đình ngồi trên bàn ăn của cha, cả con chó cũng không bị bỏ đói. Chúng được quyền ăn những mảnh bánh vụn thừa mứa từ bàn ăn rơi xuống. Cũng vậy, trong khi ơn phước được ban cho Y-sơ-ra-ên thật nhiều, lại không có một ơn phước nào dành cho bà hay sao? Bà đã bị coi như một con chó, vậy bà không có quyền của một con chó chờ đợi và tìm kiếm một mảnh vụn từ lòng rộng rãi của Ngài hay sao? CCC2 109.1

Đức Chúa Giê-su vừa bỏ cánh đồng làm việc của Ngài, vì các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đang tìm cách lấy mạng sống Ngài. Họ lằm bằm và than phiền. Họ biểu lộ lòng vô tín và cay đắng, họ từ chối sự cứu rỗi được ban cho cách nhưng không. Ở đây, Đấng Cứu Thế đã gặp một người thuộc dòng dõi bất hạnh và bị khinh miệt, dòng dõi vốn không được ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời ưu đãi. Nhưng bà đã tức khắc bị khuất phục trước sức ảnh hưởng vô biên của bổn tánh thánh khiết tỏa ra từ Đấng Christ, và bà có lòng tin chắc chắn rằng Ngài có đầy quyền năng để thỏa đáp điều bà cầu xin. Bà xin những mảnh vụn rớt từ bàn của Chủ. Nếu bà có thể có đặc ân của một con chó, bà sẵn sàng bị coi như một con chó. Bà không có thành kiến dân tộc hay tôn giáo, cũng không có lòng kiêu hãnh ảnh hưởng đến cách xử sự, bà nhìn nhận ngay tức khắc Đức Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc và có quyền năng làm tất cả những gì bà cầu xin. CCC2 109.2

Chúa Cứu Thế rất hài lòng. Ngài đã thử đức tin của bà nơi Ngài. Qua cuộc trò chuyện với bà, Ngài cho thấy rằng: Người đàn bà Ca-na-an vốn là kẻ bị người Y-sơ-ra-ên ruồng bỏ, sẽ không còn bị coi là người ngoài nữa, mà là một người con trong gia đình của Đức Chúa Trời. Với tư cách một người con, bà có quyền được chia sẻ ân điển của Cha. Giờ đây, Đấng Cứu Thế ban cho bà điều bà cầu xin, và Ngài chốt lại bài học cho các môn đồ. Ngài quay lại phía bà với cái nhìn đầy tình yêu thương và nhân từ, rồi Ngài phán: “Hỡi đàn bà kia, ngươi có đức tin lớn; việc phải xảy ra theo ý ngươi muốn!” Chính từ giờ đó, con gái của bà được lành. Ma quỷ không còn quây nhiễu nó nữa. Người đàn bà ra đi, lòng biết ơn Cứu Chúa của đời mình và vô cùng hạnh phúc vì lời cầu xin của mình đã được Đức Chúa Giê-su chấp thuận. CCC2 109.3

Đây là phép lạ duy nhất Đức Chúa Giê-su làm trong chuyến đi này, và đây cũng chính là mục đích mà Ngài đã đến vùng biên giới xứ Ty-rơ và Si-đôn. Ngài mong muốn cứu giúp người đàn bà đau khổ. Đồng thời, Ngài để lại tấm gương sáng về chức vụ nhân từ đối với một người thuộc dân tộc bị khinh dễ cho các môn đồ khi Ngài không còn ở với họ nữa. Ngài mong muốn dẫn họ ra khỏi tư tưởng độc quyền độc đoán của người Giu-đa, để quan tâm tới sự hầu việc những người thuộc các dân tộc khác. CCC2 110.1

Đức Chúa Giê-su mong muốn giải bày những lẽ mầu nhiệm của Lẽ Thật đã bị cất giấu trải qua nhiều thời đại, sự mầu nhiệm đó tức là dân ngoại cũng sẽ là những kẻ đồng kế tự với người Giu-đa, “đều có phần chung với chúng ta về lời hứa đã nhờ Tin Lành mà lập trong Đức Chúa Giê-su-Cứu Thế.” (Ê-phê-sô 3:6). Các môn đồ không mau mắn thông hiểu Lẽ Thật đó, và Giáo sư từ trời đã phải dạy dỗ họ hết bài học này đến bài học khác. Qua phần thưởng dành cho lòng tin của thầy đội ở Ca-bê-na-um, và qua việc rao giảng Tin Lành cho dân thành Si-kha, Ngài đã đưa ra bằng chứng rằng: Ngài không có thái độ bất khoan dung như người Giu-đa. Những người xứ 110 Sa-ma-ri đã hiểu biết phần nào về Đức Chúa Trời; và thầy đội đã bày tỏ lòng tử tế đối với Y-sơ-ra-ên. Giờ đây, Đức Chúa Giê-su cho các môn đồ tiếp xúc với một người ngoại, người mà họ cho là chẳng đáng gì hơn những kẻ đồng dân tộc với bà, để mà trông chờ Ngài ban ơn. Ngài muốn để lại cho các môn đồ Ngài cũng như chúng ta ngày nay tấm gương về cách đối xử với một con người. Các môn đồ đã nghĩ rằng Ngài ban phát quá hào phóng các ân điển của Ngài. Ngài muốn cho thấy rằng tình yêu thương của Ngài không bị giới hạn bởi dòng dõi hay dân tộc. CCC2 110.2

Khi phán rằng: “Ta chịu sai đến đây, chỉ vì các con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên đó thôi,” Ngài đã nêu ra Lẽ Thật, và qua phép lạ Ngài làm cho người đàn bà xứ Ca-na-an, Ngài đang từng bước làm tròn sứ mạng của mình. Người đàn bà ấy là một trong những con chiên lạc mất mà Y-sơra-ên đáng lý ra đã phải cứu vớt. Đấng Cứu Thế đang làm công việc được chỉ định cho chính họ, tức là công việc mà chính họ đã bỏ qua. Hành động này đã mở rộng tâm trí của các môn đồ đối với công việc đã được Đức Chúa Trời bày ra trước mắt họ nơi dân ngoại. Họ thấy một cánh đồng rộng lớn vượt ra xa khỏi xứ Giu-đê. Họ thấy những linh hồn khổ đau mà những người được biệt đãi hơn nhiều không hề biết đến. Trong những người họ được dạy là phải khinh chê, có những linh hồn đang khát khao được Thầy Thuốc quyền năng giúp đỡ, những linh hồn đang đói khát ánh sáng Lẽ Thật vốn được ban cách dư dật cho người Giu-đa. CCC2 110.3

Sau đó, người Giu-đa quay lưng lại với các môn đồ ngày một gay gắt hơn, bởi vì các môn đồ tuyên bố Đức Chúa Giê-su là Cứu Chúa của thế gian, và khi bức tường ngăn cách giữa người Giu-đa và dân Ngoại bị phá đổ bởi cái chết của Đấng Cứu Thế, bài học này và những bài học tương tự, chú trọng tới chức vụ Tin Lành không bị giới hạn bởi phong tục hay quốc tịch có sức ảnh hưởng đầy quyền năng trên những người đại diện cho Đấng Cứu Thế trong việc hướng dẫn sứ mạng họ mang vác. CCC2 110.4

Việc Cứu Chúa viếng thăm Phê-ni-xi và phép lạ Ngài thực hiện ở đây còn có một mục đích quan trọng hơn nữa. Không chỉ cho riêng người đàn bà đau khổ này, cũng không chỉ cho riêng các môn đồ và những ai đã đón nhận sứ mạng được giao phó, mà chức vụ đã được thực hiện còn “để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, tức là Con Đức Chúa Trời, và để khi các ngươi tin, thì nhờ Danh Ngài mà được sự sống.” (Giăng 20:31). Mười tám thế kỷ về trước, có những phần tử đã ngăn cản con người đến với Đấng Cứu Thế thì ngày nay vẫn còn là thể ấy. Tinh thần xây nên bức tường ngăn cách giữa người Giu-đa và dân ngoại vẫn còn đang tích cực hoạt động. Kiêu ngạo và thành kiến đã dựng nên những bức tường kiên cố ngăn cách giữa các tầng lớp xã hội khác nhau. Đấng Cứu Thế và sứ mạng của Ngài đã bị xuyên tạc, và đoàn dân cảm thấy rằng họ đang bị đẩy ra khỏi sứ mạng Tin Lành. Nhưng những Cơ-đốc nhân chân chính đừng để cho họ cảm thấy rằng họ bị đẩy ra khỏi Đấng Cứu Thế. Không có bức tường ngăn cách nào con người hoặc Sa-tan có thể xây lên mà đức tin trong Đấng Cứu 111 Thế không thể xuyên qua. CCC2 111.1

Bởi đức tin, người đàn bà xứ Phê-ni-xi đã bật lên trên những rào cản chồng chất giữa người Giu-đa và dân Ngoại. Trong trận chiến chống lại sự tuyệt vọng, kể cả sự thờ ơ bề ngoài cũng có thể dẫn bà tới chỗ nghi ngờ, bà tin tưởng vào tình yêu thương của Cứu Chúa. Đấng Cứu Thế mong muốn chúng ta tin tưởng Ngài như vậy. Ơn phước cứu rỗi là cho mọi người. Ngoại trừ chính sự chọn lựa của con người, thì không gì có thể ngăn cản họ trở thành kẻ dự phần trong lời hứa nơi Đấng Cứu Thế bởi Tin Lành đời đời được. CCC2 111.2

Với Đức Chúa Trời, sự phân chia giai cấp thật gớm ghiếc. Ngài bỏ qua tất cả những gì mang bản chất như vậy. Trong cái nhìn của Ngài, mọi linh hồn đều có giá trị như nhau. “Ngài đã làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở, hàu cho tìm kiếm Đức Chúa Trời, và hết sức rờ tìm cho được, dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta”. Không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, quốc tịch, hay đặc ân tôn giáo, mọi người đều được mời gọi đến với Ngài và được sống. “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Giê-su-Cứu Thế, anh em thấy đều làm một”. “Kẻ nào tin Ngài sẽ chẳng bị hổ thẹn. Trong người Giu-đa và người Gờ-réc không có sự phân biệt gì hết, vì họ có chung một Chúa, giàu ơn đối với mọi kẻ kêu xin Ngài. Vì ai kêu cầu Danh Chúa thì sẽ được cứu.” (Công-vụ các Sứ-đồ 17: 26, 27; Ga-la-ti 3:28; Rô-ma 10:11-13). CCC2 111.3