TÌNH YÊU TRONG LỬA

79/282

Việc in công khai bị bãi bỏ

Vua vui thích chiêu mộ nhân tài từ các nước về triều đình của mình. Nhưng vì còn lòng hăng hái dập tắt dị giáo nên nhà tài trợ học thuật này đã ra sắc lệnh hủy bỏ tất cả việc in ấn trên toàn nước Pháp! Francis I là một trong những thí dụ lịch sử chứng tỏ mặc dù người có tri thức cao cũng không tránh được tính cố chấp và đàn áp tôn giáo. TTL 103.4

Các linh mục đòi phải lấy huyết chuộc tội sỉ nhục Thiên Đàng đối với những kẻ chỉ trích lễ mi-sa. Ngày 21 tháng Giêng năm 1535 được ấn định là ngày thi hành lễ đáng kinh sợ này. Trước cửa mỗi nhà là một ngọn đuốc sáng để tôn vinh “bánh thánh”. Trước bình minh, đám rước tập họp tại cung điện của vua. TTL 103.5

“Giám mục Paris bưng bánh thánh dưới một cái màn trướng lộng lẫy, ... với bốn hoàng tử nâng đỡ... Nhà vua hộ tống sau bánh thánh... Ngày hôm đó, Francis I không đội vương miệng, không mặc long bào”. (Wylie, book 13, chapter 21 ). Đi ngang mỗi bàn thờ, vua nhẫn nhục cúi đầu, không phải vì những việc đồi bại làm dơ bẩn linh hồn vua hay bàn tay vua dính huyết vô tội, mà vì “tội đáng chết” của thần dân vua là những người dám lên án lễ mi-sa. TTL 103.6

Vua tiến vào hội trường lớn của dinh giám mục. Với những từ ngữ đầy cảm động có sức thuyết phục, vua tiếc nuối than “tội ác, phạm thượng, ngày của đau khổ và sỉ nhục” đã đến trên quốc gia. Vua kêu gọi mọi thần dân trung thành hãy cùng quét sạch những kẻ “dị giáo” không đội trời chung đang đe dọa làm tiêu tan nước Pháp. Nước mắt tuôn rơi làm vua nghẹn lời, cả hội chúng cùng khóc, rồi đồng la lên: “Chúng ta sẽ cùng sống cùng chết vì đạo Công giáo!”. (D’ Aubigné, book 4, chapter 12 ) TTL 104.1

“Ân điển đem đến sự cứu rỗi” đã được bày tỏ, nhưng nước Pháp lóa mắt vì ánh sáng rực rỡ nên đã quay lưng chọn lựa bóng tối hơn là sự sáng. Họ gọi ác là thiện và thiện là ác, cho đến chừng họ sa sút thành nạn nhân của hậu quả tự lừa dối mình. Họ đã cố ý từ chối sự sáng đã cứu họ ra khỏi trò lừa gạt, khỏi sự nhơ nhuốc vì tấm lòng nhuộm huyết vô tội. TTL 104.2

Đám rước tiếp tục diễu hành. “Cách đó không xa, các giàn hỏa đã được dựng lên để thiêu sống những Cơ Đốc nhân Cải Chánh, nó được sắp xếp sao cho dàn gỗ sẽ bừng cháy lên ngay vào lúc vua vừa đi đến, đám rước cũng sẽ dừng lại để chứng kiến thi hành án tử hình”. (Wylie, book 13, chapter 21). Không một nạn nhân nào nao núng. Khi họ bị thúc giục chối bỏ đức tin, một người đáp trả: “Tôi chỉ tin vào những gì mà các tiên tri cùng các sứ đồ đã rao giảng ngày xưa, những gì mà nhóm người đồng đi với các thánh đã tin. Đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời sẽ chống lại mọi quyền lực của địa ngục”. (D’ Aubigné, book 4, chapter 12 ) TTL 104.3

Khi họ về đến cung điện, đám đông giải tán, vua cùng các chức sắc của giáo hội ra về, tự lấy làm vui sướng vì công việc sẽ tiếp tục cho đến khi nào “dị giáo” bị diệt sạch hoàn toàn. TTL 104.4

Tin lành bình an mà nước Pháp từ chối đã thật sự bị động gốc, gây ra những hậu quả thảm khốc. Ngày 21 tháng Giêng năm 1793, một đám rước khác đi qua các đường phố Paris. “Vua cũng là nhân vật lãnh đạo, cũng có tiếng ồn ào, la hét, cũng có tiếng kêu đòi giết thêm nạn nhân, nhiều giàn hỏa ảm đạm cũng được dựng lên, cùng những cảnh tượng hành hình kinh khiếp kết thúc một ngày. Vua Louis XVI vật lộn với những cai ngục và kẻ thi hành án, bị kéo lê đến chỗ xử trảm, vẫn bị trói cho đến khi đao phủ chặt đầu vua rớt xuống khỏi đoạn đầu đài”. (Wylie, book 13, chapter 21). Gần đó cũng có hai ngàn tám trăm người bị chết chém. TTL 104.5

Phong trào Cải Chánh đã trình bày cho thế giới một quyển Kinh Thánh được mở rộng. Tình yêu thương của Đấng vô đối đã bày tỏ cho nhân loại các nguyên tắc của thiên đàng. Khi nước Pháp từ chối món quà thiên đàng là nó đã gieo mầm hư hoại. Không thể tránh được đoạn kết thúc của luật nhân quả từ cuộc Cách mạng Pháp và Thời kỳ Kinh hoàng. TTL 104.6

Farel can đảm và nhiệt thành đã buộc phải trốn khỏi quê nhà chạy sang Thụy Sĩ. Mặc dù vậy, ông vẫn tiếp tục nỗ lực tạo ảnh hưởng mạnh cho Cải Chánh ở nước Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của những người sống lưu vong, ông dịch các sách của những nhà Cải Chánh Đức sang tiếng Pháp và dịch Kinh Thánh tiếng Pháp để in ra với số lượng lớn. Những người bán sách dạo đã bán các loại sách này khắp nước Pháp. TTL 104.7

Farel bắt đầu công việc ở Thụy Sĩ với vai trò khiêm tốn là giáo viên, cẩn thận giới thiệu về những lẽ thật Kinh Thánh. Có một số người tin, nhưng các linh mục đã ngăn chặn công việc này, họ xúi những người mê tín chống lại. Các linh mục nói rằng: “Đó không phải là tin lành của Đấng Christ, vì sự rao giảng đó không đem lại sự bình an mà đem chiến tranh”. (Wylie, book 14, chapter 3 ) TTL 104.8

Farel đi hết làng này đến làng khác, kiên trì chịu đói, rét, kiệt sức, nơi nào cũng nguy hiểm đến tính mạng. Ông rao giảng những nơi họp chợ, trong nhà thờ, thỉnh thoảng trên các tòa giảng trong thánh đường. Hơn một lần ông bị đánh suýt chết. Tuy nhiên, ông vẫn duy trì công việc. Cuối cùng thì một số thị trấn và thành phố từng là đồn lũy vững bền của cộng đồng tín đồ Công giáo đã mở cửa tiếp nhận tin lành. TTL 105.1

Farel mong muốn thiết lập ngọn cờ Cải Chánh tại Geneva. Nếu chinh phục được thành phố này thì nó sẽ là trung tâm cho phong trào Cải Chánh tại Pháp, Thụy Sĩ và Ý. Nhiều thành thị và làng nhỏ xung quanh đã trở thành Cải Chánh. TTL 105.2

Ông cùng một người cộng sự đi đến Geneva, nhưng ông chỉ được phép giảng tại đó hai lần. Các giám mục gọi ông đến trước hội đồng giáo hội, họ giấu vũ khí trong áo lễ đang mặc, kiên quyết đoạt mạng sống của ông. Họ tập họp một đám đông dữ tợn chực chờ giết ông trong trường hợp ông trốn thoát khỏi tòa án. Tuy nhiên, nhờ sự hiện diện của các quan thẩm phán và quân đội mà ông được cứu. Sáng sớm hôm sau, ông được đưa qua bên kia bờ hồ đến một nơi an toàn. Vậy là nỗ lực đầu tiên của ông để truyền giảng cho Geneva bị chấm dứt. TTL 105.3

Tiếp theo là một công cụ tầm thường hơn — một thanh niên vẻ ngoài nhu mì đến nỗi những người bạn tự xưng là theo Cải Chánh cũng cư xử lãnh đạm với anh ấy. Nhưng thanh niên này có thể làm gì ở nơi mà Farel đã bị từ chối? “Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu của thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh” (1 Cô-rinh-tô 1:27). TTL 105.4