Cẩu CHUYỆN Cứu CHUỘC (Quyến 2)
Nhà Lãnh Đạo Của Các Cuộc Cải Cách
Ông quyết định viếng thăm La Mã trong sự quan phòng của Đức Chúa Trời. Giáo hoàng đã hứa ân xá cho tất cả những ai mà quỳ gối trèo lên cầu thang của Phi-lát như người ta đã biết. Một ngày nọ Luther đang thực hiện hành động này, thì thình lình có tiếng nói như sấm chớp dường như phán cùng ông ràng, “người công bình thì sống bởi đức tin mình!” Ông bật dậy lấy làm xấu hổ và khiếp sợ, và chạy trốn khỏi cảnh tượng điên rồ của mình. Đoạn trích đó không bao giờ mất đi quyền phép nó trong linh hồn ông. Kể từ đó ông nhìn thấy rõ ràng hơn bao giờ hết sự sai lầm để tin vào công việc của loài người cho sự cứu rỗi, và sự cần thiết của đức tin kiên định trong sự thương xót của Đấng Christ. Mắt ông đã được mở, và không bao giờ bị khép lại, bởi sự lừa gạt xấu xa của chế độ tôn giáo. Khi ông quay mặt khỏi La Mã thì ông cũng đã thay đổi lòng mình, và kể từ đó sự chia cách trở nên rộng hơn, cho đến khi ông cắt đứt mọi liên hệ với hội thánh của chế độ theo nhà lãnh đạo tôn giáo. CC 139.1
Sau khi trở về từ La Mã, Luther nhận bàng tiến sĩ thần học ở Đại học Wittenberg. Bây giờ ông có thể tự do dâng hiến chính mình cho quyển Kinh Thánh mà ông yêu thích hơn bao giờ hết. ông đã chính thức hứa nguyện học hỏi cách cẩn thận và rao giảng Lời của Chúa bởi lòng thành tín, chứ không phải những câu nói và giáo lý của nhà lãnh đạo tôn giáo, suốt những ngày tháng của cuộc đời mình, Ông không còn là tu sĩ hay giáo sư, nhưng là người đứng đầu có quyền hạn của Kinh Thánh. Ông đã được xem như là người chăn chiên để nuôi các con chiên đang đói khát lẽ thật của Đức Chúa Trời. Ông kiên quyết cho ràng Cơ Đốc nhân không nên tiếp nhộn những giáo lý khác nào nữa hơn là những giáo lý dựa trên quyền hgn của Kinh Thánh. Các lời này tốn công vào nền tảng thực sự về uy quyền của chế độ tôn giáo. Chúng chứa đựng nguyên tắc quan trọng của Phong trào cải cách. CC 139.2
Lúc này Luther bắt đầu công việc mình như một chiến sĩ bảo vệ lẻ thột cách dạn dĩ. Từ tòa giảng, người ta nghe được sự cảnh báo nhiệt thành và long trọng của ông. Ông đật bản tính công kích tội lỗi trước dân chúng, và dạy họ ràng con người không có thể giảm bớt tội lồi hay lẩn tránh sự trừng phạt bởi chính công việc mình, Không có điều gì nhưng sự ăn năn với Chúa và đức tin trong Đấng Christ mới có thể cứu tội nhân. Ân điển của Đấng Christ không thể mua được; vì đó là món quà tự nguyện. Ông khuyên bảo dân chúng đừng nên mua sự ân xá, nhưng hãy nhìn vào đức tin của Đấng Cứu Chuộc bị đóng đinh. Ông thuật lại chính nhửng trải nghiệm đau đớn của mình trong sự tìm kiếm vô ích bởi sự sỉ nhục và ăn năn để có được sự cứu rỗi, và đảm bảo với những người nghe mình ràng ông thấy bình an và vui mừng bởi lìa bỏ chính mình và tin vào Đấng Christ. CC 140.1
Sự giảng dạy của Luther thu hút sự chú ý của CC 140.2
những người quan tâm khắp nước Đức. Các bài giảng và bài viết của ông phát ra những tia sáng làm thức tỉnh và soi sáng hàng ngàn người. Một đức tin hằng sống đang thế chỗ cho chủ nghĩa hình thức chết mà hội thánh đã được giữ từ lâu. Hằng ngày dân chúng đang mất niềm tin vào sự mê tín của đạo La Mã. Những hàng rào định kiến đang nhường lối mình. Lời của Đức Chúa Trời mà Luther đã kiểm tra trên mỗi giáo lý và mỗi lời khẳng định, như thanh gươm hai lưỡi, cắt đứt con đường dân vào lòng của dân chúng, ở mỗi nơi đều đang đánh thức một khát khao cho sự tiến triển tôn giáo. Ở mỗi nơi là sự đói khát sự công bình vì đã không được biết đến trong các thời kỳ. Mắt dân chúng, được hướng vào những lễ nghi và người cầu thay của con người quá lâu, thì lúc này đang hướng về Đấng Christ và Đấng bị đóng đinh trong sự ởn năn và đức tin. CC 141.1
Các bài viết của Nhà cải cách và giáo lý của ông đang mở rộng tới mỗi quốc gia trong các nước theo đạo Cơ Đốc. Công việc này lan tới Thụy Sĩ và Hà Lan. Bản sao về các bài viết của ông đến Pháp và Tây Ban Nha. Các bài giảng của ông được tiếp nhộn như lời của sự sống ở Anh quốc. Lẽ thật cũng đã lan rộng tới Bỉ và Ý. Hàng ngàn người đang thức tĩnh từ sự kinh ngạc như chết của mình thành sự vui mừng và hy vọng của một đời sống đức tin. CC 141.2