Sự Tranh Đấu Khốc Liệt

28/44

Chương 25 - Phong Trào Tái Lâm Được Minh Họa

Tôi nhìn thấy một số lượng các nhóm người dường như được ràng buộc lại với nhau bởi những sợi dây. Nhiều người trong những nhóm này hoàn toàn ở trong sự tối tăm. Những đôi mắt họ được hướng xuống thế gian, và dường như không có một mối quan hệ nào giữa họ với Đức Chúa Jêsus. Tôi thấy những cá nhân rải rác trong những nhóm khác nhau này có sắc mặt như ánh sáng, và những đôi mắt của họ hướng lên thiên đàng. Những tia sáng từ Đức Chúa Jêsus, như những tia sáng từ mặt trời, được truyền tải cho họ. Một vị thiên sứ ra lệnh cho tôi hãy nhìn một cách cẩn thận, và tôi thấy một vị thiên sứ đang quan phòng trên mọi người có những tia của ánh sáng, trong khi những quỷ sứ bao quanh những kẻ ở trong sự tối tăm. Tôi nghe tiếng của một vị thiên sứ kêu lên rằng, ‘Hãy kính sợ Đức Chúa Trời, và tôn vinh Ngài, vì giờ phán xét của Ngài đã đến.’ Một ánh sáng vinh hiển ngự xuống trên những nhóm này, để soi sáng cho những ai đón nhận nó. Một vài người ở trong sự tối tăm đã đón nhận ánh sáng và vui mừng; trong khi những người khác kháng cự ánh sáng từ trời, và nói rằng đó là một sự lừa dối để dẫn dắt họ lạc lối. Ánh sáng đi khỏi họ, và họ bị bỏ trong sự tối tăm. Những ai đón nhận ánh sáng từ Đức Chúa Jêsus, vui mừng yêu mến sự gia tăng của ánh sáng quí báu mà đã giáng trên họ. Những gương mặt họ sáng ngời, và rạng rỡ với niềm vui thánh khiết, trong khi sự nhìn chăm chú của họ được hướng lên Đức Chúa Trời với mối quan tâm mạnh mẽ, và những tiếng nói của họ được nghe cùng hòa giọng với tiếng của vị thiên sứ, ‘Hãy kính sợ Đức Chúa Trời, và tôn vinh Ngài, vì giờ phán xét của Ngài đã đến.’ Khi họ cất cao tiếng kêu này, tôi thấy những kẻ ở trong sự tăm tối dùng sườn và vai xô đẩy họ. Đoạn nhiều người trong số những người yêu mến ánh sáng thánh khiết đã phá bỏ những sợi dây mà đã giam hãm họ, và đứng tách biệt khỏi những nhóm đó. Và khi nhiều người phá bỏ những sợi dây mà đã trói buộc họ, thì nhiều kẻ thuộc những nhóm khác nhau này—những người mà được họ kính trọng—đã xuyên qua các nhóm, và một vài người với những lời dễ chịu, và những người khác với những cái nhìn đầy phẫn nộ cùng những cử chỉ đe dọa, đã buộc chặt những sợi dây mà đã bị lỏng lại, và nói luôn không ngớt, ‘Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Chúng ta đứng trong ánh sáng. Chúng ta có lẽ thật.’ Tôi hỏi những người này là ai. Tôi được bảo rằng họ là những Mục-sư/Truyền-đạo và những người lãnh đạo mà bản thân họ đã từ chối ánh sáng, và không muốn rằng những người khác sẽ đón nhận nó. Tôi thấy rằng những người yêu mến ánh sáng ngước nhìn lên với sự quan tâm và niềm khao khát mãnh liệt, trông chờ Đức Chúa Jêsus sẽ đến và đem họ đi với Ngài. Chẳng bao lâu một đám mây bao phủ trên những người vui mừng trong ánh sáng, và những gương mặt họ trông đau buồn. Tôi hỏi nguyên nhân của đám mây này. Tôi được chỉ cho thấy rằng đó là sự thất vọng của họ. Thời điểm mà họ trông đợi Đấng Cứu Chuộc sẽ đến đã trôi qua, và Đức Chúa Jêsus đã không đến. Sự nản lòng giáng trên họ và những người mà trước đó tôi đã để ý đến—những Mục-sư/Truyền-đạo cùng những nhà lãnh đạo—thì vui mừng. Những kẻ đã từ chối ánh sáng rất đỗi hớn hở trong khi Sa-tan và những quỷ sứ của nó cứng đắc chí xung quanh chúng. ĐTK 92.1

Đoạn tôi nghe tiếng của một vị thiên sứ khác nói rằng, ‘Ba-by-lôn lớn đã đổ rồi, đã đổ rồi!’ Một ánh sáng rạng chiếu trên những người nản lòng, và với một sự khao khát nhiệt thành cho sự hiện đến của Ngài, một lần nữa họ lại dán mắt nhìn về Đức Chúa Jêsus. Đoạn tôi thấy một số đông thiên sứ trò chuyện với vị thiên sứ thứ hai—người đã cất tiếng kêu, ‘Ba-by-lôn lớn kia, đã đổ rồi, đã đổ rồi!’ và những thiên sứ này đã trỗi giọng mình cùng với vị thiên sứ thứ hai và kêu lên, ‘Kìa, Chàng Rể đến, hãy đi ra rước Người!’ Những giọng nói du dương của các vị thiên sứ này dường như vang đến mọi nơi. Một ánh sáng vinh hiển và rực rỡ quá đối rạng soi xung quanh những người ham mến ánh sáng mà đã được ban phát cho họ. Những gương mặt của họ chiếu sáng với một sự vinh hiển tuyệt diệu, và họ đã cùng hòa giọng với các thiên sứ trong tiếng kêu, ‘Kìa, Chàng Rể đến!’ Và khi họ cùng hòa giọng cất tiếng giữa những nhóm người khác nhau này, thì những kẻ đã từ chối ánh sáng đã xô đẩy họ, và với những cái nhìn giận dữ, đã khinh miệt và nhạo báng họ. Nhưng các thiên sứ của Đức Chúa Trời đã dang cánh của mình ra trên những người bị bắt bớ, trong khi Sa-tan và những sứ nó tìm cách để đè nặng sự tăm tối của chúng xung quanh họ, để đưa đẩy họ từ chối ánh sáng từ thiên đàng. ĐTK 93.1

Đoạn tôi nghe một tiếng nói cùng những người đã bị xô đẩy và chế nhạo, ‘Hãy ra khỏi giữa chúng nó, và đừng đá động đến đồ ô uế.’ Một số đông đã phá bỏ những sợi dây mà đã buộc chặt họ, và họ đã vâng theo tiếng phán, và rời khỏi những kẻ ở trong sự tăm tối, và cùng hiệp lại với những người mà trước đó đã phá bỏ những dây trói, và họ vui mừng hòa giọng mình với họ. Tôi nghe tiếng cầu nguyện khẩn thiết và đau khổ từ một ít người vẫn còn ở lại với những đám đông trong sự tăm tối. Các vị Mục-sư/Truyền-đạo cùng những nhà lãnh đạo đang đi xuyên qua những nhóm khác nhau này, cột chặt những sợi dây lại hơn; nhưng tôi vẫn nghe được lời cầu nguyện khẩn thiết này. Đoạn tôi thấy những người đang cầu nguyện đưa cánh tay của họ ra để cầu xin sự giúp đỡ từ nhóm người hiệp nhất đã được tự do và vui mừng trong Đức Chúa Trời. Câu trả lời từ họ—khi họ nghiêm trang trông lên trời và hướng chỉ lên cao—là, ‘Hãy ra khỏi giữa chúng nó, hãy phân rẽ ra khỏi chúng nó.’ Tôi thấy những cá nhân đang đấu tranh cho sự tự do, và cuối cùng họ đã phá đứt những sợi dây mà đã trói buộc mình. Họ đã kháng cự lại những nỗ lực mà đã được thực hiện để buộc chặt những sợi dây hơn, và không nghe theo những lời quả quyết lặp đi lặp lại rằng, ‘Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Chúng ta có lẽ thật với mình.’ Những cá nhân tiếp tục rời khỏi những nhóm người đang ở trong sự tăm tối, và gia nhập với nhóm người tự do—những người dường như đương ở trong một cánh đồng mênh mông được nâng lên cao khỏi mặt đất. Họ nhìn chăm chăm lên cao, và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự trên họ, và họ lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời. Họ hiệp nhất và dường như được bao bọc bởi ánh sáng của thiên đàng. Xung quanh nhóm người này, có một vài người đã đến dưới ảnh hưởng của ánh sáng, nhưng họ đặc biệt không hiệp cùng nhóm. Tất cả những ai yêu mến ánh sáng tỏa trên họ đang nhìn chằm chằm lên cao với sự quan tâm mãnh liệt. Đức Chúa Jêsus nhìn xuống họ với sự tán thành trìu mến. Họ trông chờ Đức Chúa Jêsus đến. Họ đã khao khát cho sự xuất hiện của Ngài. Họ không mảy may ngó ngàng gì đến thế gian. Tôi lại thấy đám mây phủ trên những người chờ đợi. Tôi thấy rằng họ hướng đôi mắt mệt mỏi của mình xuống đất. Tôi hỏi nguyên nhân của sự thay đổi này. Vị thiên sứ đi theo tôi trả lời rằng, ‘Họ lại thất vọng trong những sự trông chờ của mình. Đức Chúa Jêsus chưa thể đến thế gian. Họ phải chịu đau khổ vì Đức Chúa Jêsus và chịu đựng những thứ thách lớn hơn. Họ phải từ bỏ những sai lầm cùng những truyền khẩu mà họ đã nhận được từ con người, và hoàn toàn xây về với Đức Chúa Trời và Lời của Ngài. Họ phải được thanh tẩy, được làm cho trắng và thử nghiệm. Và những ai chịu đựng được sự thử thách đắng cay ấy sẽ giành được sự chiến thắng đời đời.’ ĐTK 94.1

Đức Chúa Jêsus đã không đến thế gian như nhóm người chờ đợi cách vui mừng ấy đã kỳ vọng, để làm sạch đền thánh, bằng việc thanh tẩy trái đất bởi lửa. Tôi thấy rằng họ đã đúng trong sự tính toán của mình về những giai đoạn tiên tri. Thời kỳ tiên tri đã kết thúc vào năm 1844. Sự sai lầm của họ cốt ở trong việc đã không hiểu về đền thánh là gì và bản chất của việc làm sạch nó ra sao. Đức Chúa Jêsus đã bước vào nơi chí thánh để làm sạch đền thánh vào cuối những ngày. Tôi nhìn đoàn người chờ đợi cách thất vọng một lần nữa. Họ trông buồn bã. Họ đã cẩn thận xem xét những bằng chứng về niềm tin của mình, và dò theo suốt quá trình tính toán về những giai đoạn tiên tri, không thể khám phá ra sai lầm nào. Thời gian đã ứng nghiệm, nhưng Đấng Cứu Chuộc của họ ở đâu? Họ đã mất Ngài. ĐTK 95.1

Tôi đoạn được chỉ cho thấy sự thất vọng của các môn đồ khi họ đến nơi mộ đá và không tìm thấy xác của Đức Chúa Jêsus. Ma-ri đã nói, ‘Người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu.’ Những vị thiên sứ nói với những môn đồ đau khổ rằng Chúa của họ đã sống lại rồi, và sẽ đi trước họ đến Ga-li-lê. ĐTK 95.2

Tôi thấy rằng khi Đức Chúa Jêsus nhìn xuống những người thất vọng với một sự thương xót sâu sắc nhất, Ngài đã sai các thiên sứ của Ngài để hướng dẫn tâm trí của họ để họ có thể tìm được Ngài, và đi theo Ngài đến nơi Ngài ngự; để họ có thể hiểu được rằng thế gian không phải là đền thánh; rằng Ngài phải bước vào nơi chí thánh của đền thánh trên trời để làm sạch nó; để thực hiện một sự chuộc tội đặc biệt cho dân Y-sơ-ra-ên, và để nhận được nước của Đức Chúa Cha, đoạn sẽ trở lại thế gian và đem họ sống với Ngài đời đời. Sự thất vọng của các môn đồ là biểu trưng rất tốt cho sự thất vọng của những ai trông mong Chúa của họ vào năm 1844. Tôi được đem trở lại thời điểm khi Đấng Christ cưỡi lừa trong tiếng reo hò vào thành Giê-ru-sa-lem. Các môn đồ vui mừng tin rằng lúc đó Ngài sẽ nhận nước, và trị vì như hoàng tử của trần gian. Họ đã đi theo Vua của mình với những hy vọng rất cao. Họ chặt những nhành cọ xinh đẹp, cứng như cởi áo ngoài của mình, và trải chúng trên đường với lòng sốt sắng nhiệt thành; và một vài người đi trước, những người khác theo sau la lên rằng, ‘Hô-sa-na con vua Đa-vít! Đáng khen ngợi cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hô-sa-na ở trên nơi rất cao!’ Sự nhộn nhịp đã làm cho những người Pha-ri-si lo âu, và họ mong muốn Đức Chúa Jêsus hãy quở trách các môn đồ của Ngài. Nhưng Ngài phán với họ rằng, ‘Nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên.’ Lời tiên tri của Xa-cha-ri 9: 9 phải được ứng nghiệm, tuy nhiên, tôi thấy các môn đồ phải chịu một sự thất vọng đắng cay. Trong một vài ngày họ đã đi theo Ngài đến Gô-gô-tha, và nhìn Ngài đổ huyết và mangled trên cây thập tự tàn bạo. Họ đã chứng kiến sự chết đau đớn của Ngài, và đã đặt Ngài trong mộ. Những tấm lòng họ đã chìm đắm trong nỗi sầu khổ. Những sự mong đợi của họ đã không thành hiện thực trong bất kỳ một sự kiện nào. Những hy vọng của họ đã chết với Đức Chúa Jêsus. Nhưng khi Ngài từ kẻ chết sống lại, và hiện ra với những môn đệ đau buồn của Ngài, thì những hy vọng của họ đã hồi sinh. Họ đã mất Đấng Cứu Chuộc của mình; nhưng họ đã tìm được Ngài lại. ĐTK 95.3

Tôi thấy rằng sự thất vọng của những người tin vào sự hiện đến của Chúa vào năm 1844 thì không bằng với sự thất vọng của các môn đồ. Lời tiên tri đã ứng nghiệm trong những sứ điệp của vị thiên sứ thư nhất và thứ hai. Chúng đã được ban cho vào một thời điểm đúng lúc, và đã hoàn tất công việc mà Đức Chúa Trời đã phác thảo. ĐTK 96.1

Xem Đa-ni-ên 8: 14; Ma-thi-ơ 21: 4-16; 25: 6; Mác 16: 6, 7; Lu-ca 19: 35-40; Giăng 14: 1-3; 20:13; 2 Cô-rinh-tô 6:17; Khải-huyền 10: 8-11; 14:7, 8 ĐTK 96.2