Cẩu CHUYỆN Cứu CHUỘC (Quyến 1)

68/126

Hai Gian

Đền tạm được cấu thành bởi hai gian, ngăn cách bởi một bức màn hoặc trướng. Tất cả những đồ vật của đền tạm đều được làm toàn bằng vàng hoặc bọc vàng. Những bức màn của đền tạm thì gồm có những màu sắc khác nhau, được sắp xếp một cách xinh đẹp nhất, và phía bên trong những bức màn được thêu dệt với những sợi chỉ bằng vàng và bạc, là chê-rubim—đại diện cho đoàn thiên binh, liên hệ với công việc của dền thánh trên trời và là những thiên sứ phục sự cho các thánh trên đất. CC1 187.2

Hòm bảng chứng được đặt phía bên trong bức màn thứ hai, là một bức màn xinh đẹp, quí giá được dặt trước hòm thánh khiết. Bức màn này không chạm đến nóc của công trình. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời—ở trên nắp thi-ân—có thể nhìn thấy từ cả hai gian, nhưng ở gian thứ nhất thì ít ơn. CC1 187.3

Ngay trước hòm, nhưng được phân cách bởi bức màn, là bàn thờ dâng hương bằng vàng. Ngọn lửa ở trên bàn thờ này dã được chính Đức Giê-hô-va nhen lên, và dược gìn giữ cách thánh khiết bằng cách cung cấp cho nó những hương trầm thánh, mà sẽ làm dầy đền thờ ngày đêm với khói hương thơm ngát. Mùi hương của nó trải dài hàng dặm xung quanh dền tạm. Khi thầy tế lễ dâng hương trước mặt Đức Giê-hô-va, người nhìn về nắp thi-ân. Mặc dù người không thể nhìn thấy nó, nhưng người biết là nó ở dó, và khi mùi hương bốc lên như một đám mây, sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va ngự xuống nắp thi-ân và làm đầy nơi chí thánh, và có thể nhìn thấy trong nơi thánh, và sự vinh hiển thường phủ đầy cả hai gian đến nỗi thầy tế lễ không thể thực hiện chức vụ và buộc phải ra đứng trước đền tạm. CC1 188.1

Thầy tế lễ trong nơi thánh, hướng lời cầu nguyện bằng đức tin của mình đến nắp thi-ân mà người không thể nhìn thấy, đại diện cho dân sự của Đức Chúa Trời hướng những lời cầu nguyện của họ về Đấng Christ trước nắp thi-ân của đền thánh trên trời. Họ không thể nhìn thấy Đấng Trung Bảo của mình với mắt trần, nhưng bởi đôi mắt của đức tin, họ nhìn thấy Đấng Christ trước nắp thi-ân và hướng những lời cầu nguyện của mình về Ngài, và với sự tin chắc, họ xưng nhận những ích lợi từ sự cầu thay của Ngài. CC1 188.2

Những gian thánh khiết này không có cửa sổ để ánh sáng vào. Chân đèn được làm bằng vàng ròng, và luôn được đốt cháy ngày đêm để chiếu sáng cho cả hai gian. Ánh sáng từ những ngọn đèn trên chân đèn phản ánh trên những đường chạy được bọc vàng dọc theo đền tạm, trên những vật dụng thánh khiết và trên những bức màn với màu sắc xinh đẹp, với chê-ru-bim được làm từ những sợi vàng và bạc—tạo một sự rực rỡ mà không thể diễn tả được. Không một ngôn ngữ nào có thể miêu tả vẻ dẹp và sự đáng yêu, sự vinh hiển thánh khiết mà những gian phòng này bày tỏ. Vàng của đền thờ phản ánh những màu sắc của các bức màn, trông giông như các màu sắc khác nhau của cầu vòng. CC1 189.1

Thầy tế lễ cả chỉ có thể bước vào nơi chí thánh mỗi năm một lần, sau khi đã chuẩn bị một cách thận trọng và trang nghiêm nhất. Không một mắt trần nào, ngoại trừ của thầy tế lễ cả ra, có thể nhìn xem sự cao quí thánh khiết của gian phòng ấy, bởi vì nó là nơi ngự đặc biệt của sự vinh hiển có thể nhìn thấy được của Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ cả luôn bước vào nơi chí thánh với sự run rẫy, trong khi dân sự trang nghiêm yên lặng chờ đợi người quay trở ra. Nếu người ở trong nơi chí thánh lâu hơn bình thường, dân sự thường hoảng sợ, e rằng vì những tội lỗi của họ hoặc một vài tội lỗi nào của thầy tế lễ, mà sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đã giết chết người. Nhưng khi âm thanh leng keng của những cái chuông trên áo người mặc vang lên, họ trút đi gánh nặng. Và rồi người bước ra và ban phước cho dân sự. CC1 189.2

Sau khi công việc của đền tạm được hoàn tất, “áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va đầy dẫy dền tạm, cho đến nỗi Môi-se vào chẳng đặng, vì áng mây bao phủ ở trên và sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va dầy dẫy dền tạm...”. “Vì trong các sự hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, thì áng mây của Đức Giê-hô-va ở trên đền tạm ban ngày, và có lửa ở trên đó ban đêm hiện trước mặt cả dân Y-sơ-ra-ên”. CC1 190.1

Đền tạm dược dựng theo cách dể có thể tháo rời ra từng phần và đem theo với họ trong mọi cuộc hành trình. CC1 190.2