Cẩu CHUYỆN Cứu CHUỘC (Quyến 1)

61/126

Luật pháp của Đức Chúa Trời được công bố

Sau khi Chúa đã bày tỏ cho họ biết những chứng cớ về quyền năng của Ngài, Đức Chúa Trời cho họ biết Ngài là ai: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đã rút ngươi ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là nhà nô lệ”. Cũng chính Đức Chúa Trời, Đấng đã bày tỏ quyền năng Ngài giữa những người Ê-díp-tô giờ đây phán bảo về luật pháp Ngài. CC1 169.1

“Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác. CC1 169.2

Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp này, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó; vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta. CC1 169.3

Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi, vì Đức Giê-hô-va chẳng cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi. CC1 169.4

Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.Ngươi hãy làm hết công việc mình trong sáu ngày; nhưng ngày thứ bảy là ngày nghỉ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi: trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai tớ gái, súc vật của ngươi, hoặc khách ngoại bang ở trong nhà ngươi, đều chớ làm công việc chi hết; vì trong sáu ngày Đức Giê-hô-va đã dựng nên trời, đất, biển và muôn vật ở trong đó, qua ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ: vậy nên Đức Giêhô-va đã ban phước cho ngày nghỉ và làm nên ngày thánh. CC1 170.1

Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho. CC1 170.2

Ngươi chớ giết người. CC1 170.3

Ngươi chớ phạm tội tà dâm. CC1 170.4

Ngươi chớ trộm cướp. CC1 170.5

Ngươi chớ nói chứng dối cho kẻ lân cận mình. CC1 170.6

Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng dừng tham vợ người, hoặc tôi trai tớ gái, bò, lừa, hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận ngươi”. CC1 170.7

Điều răn thứ nhất và thứ hai mà Đức Giê-hô-va dã phán là những mệnh lệnh chông lại sự thờ hình tượng; bởi sự thờ hình tượng, nếu thực hiện, sẽ đẩy đưa con người đến sự phạm tội và phản loạn lớn, và kết quả là sẽ giết người để tế thần. Đức Chúa Trời muốn ngăn cản mọi hình thức gớm ghiếc dó. Bốn diều răn đầu chỉ cho dân sự biết bổn phận mình đối với Đức Chúa Trời. Điều răn thứ tư là mắc xích liên lạc giữa Đức Chúa Trời vĩ đại và con người. Đặc biệt, ngày Sa-bát dược ban cho vì lợi ích của con người và vì sự kính trọng dành cho Đức Chúa Trời. Sáu điều răn sau chỉ cho con người biết bổn phận đối với đồng loại. CC1 170.8

Ngày Sa-bát là một dấu hiệu giữa Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài cho đến đời đời. Ngày Sabát là một dấu, bởi vì những ai gìn giữ ngày Sa-bát, tuyên bố qua hành dộng giữ gìn ấy rằng họ là những người thờ phượng Đức Chúa Trời hằng sông, Đấng Tạo Hóa của các từng trời và đất. Ngày Sa-bát là một dấu giữa Đức Chúa Trời và dân sự Ngài, mãi cho đến chừng nào Ngài vẫn con một dân sự trên đất để hầu việc Ngài. CC1 171.1

“Vả, cả dân sự nghe sấm vang, tiếng kèn thổi, thấy chớp nhoáng, núi ra khói, thì run rẩy và đứng cách tận xa. Dân sự bèn nói cùng Môi-se rằng: Chính mình người hãy nói cùng chúng tôi thì chúng tôi sẽ nghe; nhưng cầu xin Đức Chúa Trời chớ phán cùng, e chúng tôi phải chết chăng. Môi-se đáp rằng: Đừng sợ chi, vì Đức Chúa Trời giáng lâm đặng thử các ngươi, hầu cho sự kính sợ Ngài ở trước mặt các ngươi, cho các ngươi không phạm tội. CC1 171.2

Vậy, dân sự đứng cách tận xa, còn Môi-se đến gần đám mây đen kịt có Đức Chúa Trời ngự ở trong. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Ngươi hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Các ngươi đã thấy Ta từ trên trời phán xuống cùng”. Sự hiện diện oai nghi của Đức Chúa Trời tại Si-na-i, và sự rúng động của đất do sự hiện diện của Ngài, tiếng sấm chớp đáng sợ đi kèm theo sự thăm viếng này của Đức Chúa Trời, đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên tâm trí của dân sự với cơn sợ hãi và kỉnh kiềng đối với sự uy nghi thánh khiết của Ngài đến nỗi theo bản năng họ rút lui khỏi sự hiện diện đáng sợ cửa Đức Chúa Trời, kẻo họ không chịu nỗi sự vinh hiển đáng kinh của Ngài. CC1 171.3