TÌNH YÊU TRONG LỬA

150/282

Chương 22—Các Lời Tiên Tri Đã Ứng Nghiệm

Mùa xuân năm 1844 đã trôi qua, đó là khoảng thời gian đầu tiên dân sự sẵn sàng chào đón Chúa tái lâm, bởi vậy những người từng háo hức chờ đợi Ngài xuất hiện đã phải nếm trải tâm trạng hoang mang, hụt hẫng, không còn chắc chắn nữa. Nhiều người tiếp tục nghiên cứu Kinh Thánh, kiểm tra lại bằng chứng cho đức tin của mình. Các tiên tri đều nói rõ ràng và tin chắc về việc Đấng Christ hầu đến. Ơn phước đặc biệt của Chúa trong việc biến đổi và phục hồi đức tin cho nhiều Cơ Đốc nhân đã chứng tỏ sứ điệp từ Thiên Đàng. Đan xen vào những lời tiên tri mà họ nghĩ được áp dụng cho thời kỳ Phục Lâm là sự hướng dẫn nhằm động viên họ kiên nhẫn chờ đợi, hãy vững lòng tin rằng những gì mà hiện tại họ còn thấy mập mờ sẽ được sáng tỏ. Một trong số các lời tiên tri này là sách Ha-ba-cúc 2:1-4. Tuy nhiên, không ai để ý có một sự trì hoãn rành rành trong lời tiên tri, đó là khoảng thời gian chờ đợi. Sau sự kiện thất vọng năm ấy, câu Kinh Thánh này dường như mới khai thông nhiều ý nghĩa: “Vì sự hiện thấy còn phải ứng nghiệm trong kỳ nhứt định, sau cùng nó kíp đến, không phỉnh dối đâu; nếu nó chậm trễ, ngươi hãy đợi; bởi nó chắc sẽ đến, không chậm trễ... Người công bình thì sống bởi đức tin mình”. TTL 175.1

Lời tiên tri của Ê-xê-chi-ên cũng an ủi tín đồ: “Lại có lời của Đức Giê-hô-va phán cho ta rằng: ... Những ngày gần đến, mọi sự hiện thấy đều ứng nghiệm... Ta sẽ nói và lời ta nói sẽ làm thành, không hoãn lại nữa”. “Lời Ta nói sẽ làm thành” (Ê-xê-chi-ên 12:23, 25, 28). TTL 175.2

Những người đang chờ đợi sẽ vui mừng. Đức Chúa Trời — Đấng biết trước kết cục mọi sự ngay từ lúc ban đầu — đã ban cho họ nguồn hy vọng. Nếu không có những lời Kinh Thánh như thế này thì đức tin của họ sẽ hỏng mất. TTL 175.3

Truyện về mười người nữ đồng trinh trong Ma-thi-ơ 25 cũng khắc họa kinh nghiệm của người Cơ Đốc phục lâm. Chúng ta thấy hình ảnh hội thánh trong những ngày cuối cùng. Kinh nghiệm của họ được minh họa bằng chuỗi sự kiện của một đám cưới ở phương Đông: TTL 175.4

“Khi ấy, nước thiên đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. Trong các nàng đó có năm người dại và năm người khôn. Người dại khi cầm đèn đi thì không đem dầu theo cùng mình. Song người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình mình. Vì chàng rể đến trễ, nên các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục. Đến khuya, có tiếng kêu rằng: Kìa chàng rể đến, hãy đi ra rước người!” (Ma-thi-ơ 25:1-6). TTL 175.5

Chàng rể đến đại diện cho sự tái lâm của Đấng Christ, đã được loan báo trong sứ điệp thiên sứ thứ nhất. Mười người nữ đồng trinh đi đón chàng rể tương ứng với cuộc cải cách sâu rộng phụ thêm vào sứ điệp rao báo Đấng Christ sắp tái lâm. Trong truyện này, tất cả đều đem theo đèn (Kinh Thánh) và cùng “đi gặp chàng rể”. Nhưng trong khi mấy người dại “không đem dầu theo cùng mình”, thì “mấy người khôn đem dầu theo trong bình mình”. Những người này có học Kinh Thánh để tìm biết lẽ thật và trải nghiệm cá nhân, cùng một lòng tin nơi Đức Chúa Trời, cho dù thất vọng hoặc chậm trễ cũng không thể đánh bại họ. Những người kia hành động theo cảm xúc, để nỗi lo sợ về sứ điệp khuấy động tâm trí, nhưng họ lại dựa dẫm vào đức tin của “người khôn”, hài lòng với ánh sáng hiu hắt của cảm xúc mà không thấu hiểu lẽ thật hoặc việc làm thật sự có ân điển trong lòng. Những người này đi “rước” Chúa, hy vọng nhận phần thưởng ngay tức khắc, nhưng họ không sẵn sàng cho vấn đề bị trì hoãn và thất vọng. Bởi vậy, họ đã thất bại. TTL 175.6

“Vì chàng rể đến trễ, nên các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục”. Chuyện kéo dài thời gian chờ đợi chàng rể tiêu biểu cho thời kỳ đã qua — thời kỳ thất vọng — có vẻ như bị trì hoãn. Những người có niềm tin bằng cách tự mình tìm hiểu Kinh Thánh là họ nương tựa vào một hòn đá vững chắc, nên không thể bị những cơn sóng chán nản cuốn trôi. “Các nàng thảy đều buồn ngủ và ngủ gục”, một hạng người bỏ bê đức tin mình, hạng người còn lại kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi sự sáng rõ ràng hơn xuất hiện. Những kẻ hời hợt không thể sống dựa dẫm mãi vào đức tin của người khác. Mỗi người phải tự mình đứng vững hoặc sụp đổ. TTL 176.1