Khởi Đầu Thời Kỳ Suy Tàn
Hê-nóc — Người đàn ông đầu tiên bất tử
Hê-nóc sống được 65 năm rồi sinh con trai. Sau đó, ông đồng đi với Đức Chúa Trời suốt 300 năm. Ông là một trong những người giữ lòng trung thành thật sự, những tổ tiên Hạt giống của lời hứa. Từ lời dạy của A-đam, ông học được lịch sử sa ngã và ân điển của Đức Chúa Trời qua sự nhận biết về lời hứa, ông cũng tin tưởng Đấng Cứu Thế sẽ đến. KTS 39.3
Nhưng sau khi sinh đứa con đầu lòng, Hê-nóc cảm nhận một trải nghiệm cao hơn. Khi ông thấy tình yêu của đứa trẻ đối với cha mình và lòng tin cậy đơn sơ vào sự che chở của cha nó, ông đã cảm nhận được sự âu yếm dịu dàng tận đáy lòng mình dành cho con, ông học được bài học quý giá về tình yêu tuyệt vời của Đức Chúa Trời trong món quà của chính Con Một Ngài. Tình yêu bao la vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời thông qua Đấng Christ trở thành chủ đề mà ông suy gẫm ngày đêm, thế là ông cố gắng chia sẻ tình yêu đó cho mọi người xung quanh. KTS 39.4
Việc đồng đi với Đức Chúa Trời của Hê-nóc không phải là trạng thái xuất thần hay tưởng tượng, mà qua những bổn phận trong đời sống hàng ngày. Bên cạnh vai trò là một người chồng, người cha, một người bạn, một công dân, ông còn là một tôi tớ kiên định của Đức Chúa Trời. KTS 39.5
Tấm lòng của ông hòa hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời; vì “nếu hai người không đồng ý với nhau thì đi chung được sao?” (A-mốt 3:3). Và việc đồng đi thiêng liêng này tiếp tục kéo dài đến 300 năm. Đức tin của Hê-nóc phát triển mãnh liệt hơn, tình yêu của ông ngày càng nồng cháy hơn qua hàng thế kỷ. KTS 39.6
Hê-nóc là một người đàn ông có hiểu biết sâu rộng, luôn tôn quý mối quan hệ đặc biệt với Đức Chúa Trời, tuy vậy ông cũng là người đàn ông khiêm tốn nhất. Ông dành thời gian với Chúa, chờ đợi học hỏi ý Ngài. Đối với ông, cầu nguyện như là hơi thở của tâm linh, ông sống trong bầu không khí thực sự của thiên đàng. KTS 39.7
Thông qua các thiên sứ thánh, Đức Chúa Trời đã tiết lộ cho Hê-nóc biết ý định của Ngài là hủy diệt thế giới bằng trật lụt. Ngài cũng mở ra kế hoạch cứu chuộc hoàn toàn cho ông và bày tỏ cho ông thấy các sự kiện vĩ đại liên quan đến sự tái lâm của Chúa Giê-su Christ và ngày tận thế của trần gian. KTS 40.1
Hê-nóc buồn phiền về sự chết. Đối với ông, dường như sự công bình và độc ác sẽ cùng nhau đi về cát bụi và thế giới này sẽ bị kết thúc. Ông có thể không nhìn thấy được gì ngoài huyệt mộ. Vì tầm nhìn của một tiên tri, ông được hiện thấy mối bận tâm về cái chết của Đấng Christ và sự tái lâm vinh quang của Ngài bên cạnh tất cả các thiên sứ thánh để gọi các con cái Ngài nằm dưới mộ thức dậy. Ông cũng nhìn thấy tình trạng thối nát của thế gian vào lúc Chúa Giê-su tái lâm, đó là thế hệ khoe khoang khoác lác, cứng đầu cứng cổ, chà đạp luật pháp và khinh bỉ cái chết của Chúa Giê-su để chuộc tội loài người. Ông nhìn thấy sự công bình được đội mão triều thiên vinh hiển và được tôn vinh, còn tội ác bị hủy diệt bằng lửa. KTS 40.2
Hê-nóc trở thành người rao giảng sự công bình, thông báo sự hiểu biết về những thông điệp của Đức Chúa Trời cho tất cả những ai muốn nghe. Nơi vùng đất Ca-in đã cố gắng chạy trốn khỏi sự hiện diện thánh thiện, nhà tiên tri đã tạo ra sự hiểu biết về những khải tượng tuyệt vời mà ông đã được chứng kiến. Ông nói rằng: “Này, Chúa đến với muôn vàn thiên sứ thánh, đặng phán xét mọi người, đặng trách hết thảy mọi người không tin kính về mọi việc không tin kính họ đã phạm cùng mọi lời sỉ hổ mà những kẻ không tin kính đó đã nói nghịch cùng Ngài” (Giu-đe 14, 15). KTS 40.3
Trong khi giảng về tình yêu của Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-su Christ, ông khiển trách tội ác đang lan tràn và cảnh báo rằng sự phán xét chắc chắn sẽ báo ứng lại những kẻ vi phạm. Những người trong sạch không phải lúc nào cũng chỉ nói lời êm dịu. Thỉnh thoảng, Đức Chúa Trời cũng đặt vào môi miệng các sứ giả Ngài những lẽ thật sắc nét và bén như con dao hai lưỡi. KTS 40.4
Một số người chú ý lời cảnh cáo, nhưng đại đa số càng bạo gan hơn trong đường lối tội lỗi của họ, chẳng hạn như thế hệ cuối cùng chỉ còn một chút ít người để ý đến những loan báo từ các sứ giả của Chúa. KTS 40.5
Đứng giữa cuộc đời hầu việc tích cực, Hê-nóc vẫn trước sau như một là duy trì tình bằng hữu với Đức Chúa Trời. Sau một thời gian tồn tại giữa nhân loại, ông chọn cách dành thời gian ở một mình, hết sức tìm cầu sự hiểu biết thiêng thượng. Tiếp xúc với Đức Chúa Trời, Hê-nóc trở nên phản chiếu hình ảnh thiêng liêng ngày càng rõ rệt hơn. Gương mặt ông rạng rỡ giống thứ ánh sáng chiếu trên gương mặt của Chúa Giê-su. KTS 40.6
Năm tháng trôi qua, trào lưu tội lỗi phát triển ngày càng khó lường, bóng tối tiếp nối màn đêm bao trùm lên những áng mây của lòng lương tri thánh thiện. Tuy nhiên, Hê-nóc vẫn duy trì đường lối của mình, cảnh báo, cầu xin, làm việc chăm chỉ, hầu đảo khuynh hướng phạm tội. Mặc dù những lời cảnh báo của ông bị phớt lờ bởi những con người tội lỗi dẫy đầy chỉ yêu thích bản thân, ông vẫn tin chắc rằng Đức Chúa Trời hài lòng về mình. Ông tiếp tục chiến đấu chống lại tội ác cho đến khi Đức Chúa Trời cất ông ra khỏi thế giới tội lỗi, lên hưởng niềm vui tinh khiết của thiêng đàng. KTS 40.7